Giới thiệu khái quát thành phố Bảo Lộc – Tỉnh Lâm Đồng

Dân số bảo lộc 2019

Điều kiện tự nhiên

Thành phố Bảo Lộc hiện nay (tên cũ là b’lao) là một trong hai trung tâm lớn của tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên di linh – bảo lộc, ở độ cao từ 800 – 1.000m so với mực nước biển; giáp ranh với huyện Bảo Lâm phía bắc, đông và nam; phía tây và tây nam của quận Dahuai.

Bảo lộc có diện tích tự nhiên 232,4 km2, có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 huyện (B’lao, huyện 1, huyện 2, lộc phát, lộc tiến, lộc sơn) và 5 xã (lộc nga )., lộc châu, đam bri, lộc thanh, đại lao).

Bảo Lộc là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và công nghiệp của tỉnh Lâm Đồng sau thành phố Đà Lạt.

Năm 1958, Bảo Lộc được bầu làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng cũ, và một vùng rộng lớn của tỉnh Thượng Đồng Nai cũ, bao gồm các quận Đa Huai, Đa Đức, Gi Tian và Bảo Lâm mới thành lập , được tách ra và sau đó được thành lập lại. Quận Baolu cũ là nơi cư trú chính của những người thợ điện.

Cùng lúc với việc xây dựng đô thị Đà Lạt, Bảo Lộc được người Pháp khai phá từ rất sớm.

Năm 1899, một phái đoàn Pháp do ông Ernest Autrey dẫn đầu đã lên đường thám hiểm để khám phá những khả năng của khu vực Hậu Đồng Nai và mở ra con đường nối liền khu vực này với hòa bình.

Ngày 1-11-1899, Toàn quyền Paul Doumer ký quyết định thành lập tỉnh Thượng Đồng Nai với Cát Lâm làm thủ phủ. Năm 1905, bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng và sáp nhập vào tỉnh Bình Thuận.

Năm 1920, Tỉnh Thượng Đồng Nai được tái lập gồm 3 quận: b’lao (bảo lộc), djiring (di linh) và dran – fyan (đơn dương).

Ngày 19 tháng 5 năm 1958, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Thượng Đồng Nai thành tỉnh Lâm Đồng, sau đó tách huyện Đề Lân ra khỏi tỉnh Lâm Đồng và nhập vào tỉnh Xuân Đức. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại hai huyện là Bảo Lộc và Thị Lĩnh. Ngày 30 tháng 11 năm 1958, Bảo Lộc được bầu làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng, việc xây dựng và mở rộng đô thị mới bắt đầu nở rộ từ đó.

Sau khi thống nhất đất nước, quận Baolu được chia thành quận Baolu, quận Dahuai, quận Dade và quận Jitian. Ngày 11 tháng 7 năm 1994, chính phủ quyết định chia quận Baolu thành hai đơn vị hành chính: Baolu Township và Baolin District.

*

Bảo lộc nằm ở độ cao 900m so với mực nước biển, khí hậu quanh năm mát mẻ, không nóng cũng không lạnh, nhiệt độ trung bình 22-24oC.

Bảo Lộc có lượng mưa lớn (2.762 mm), không tháng nào không có mưa. Các tháng mưa nắng chênh lệch nhiệt độ từ 3 – 4 oC, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm tương đối lớn, trung bình 10,3 oC.

<3Bảo Lộc có nhiều danh lam thắng cảnh như đèo Bảo Lộc, thác Đam Bri, hồ Nam Phương, suối Đá Bàn, núi Đại Bình, suối Tân Thành, v.v. Ngoài cảnh quan thiên nhiên còn có vườn cây, núi chè. Màu xanh mượt mà, đôi khi cao đến rợp bóng cây, sau lưng là núi non càng khiến Baolu thêm xinh đẹp, rộng lớn và trù phú.

Về khoáng sản, Bảo Lộc có các loại khoáng sản kim loại như than non, than bùn, bauxit, đá xây dựng, đá ốp lát, sét gạch ngói. Trong đó, trữ lượng bauxit đứng thứ hai cả nước chỉ sau huyện Đắk Nông (tỉnh Đắk Lắk).

Bảo Lộc có hệ thống nước mặt phong phú nhờ hệ thống sông la nga (da r’nga) và hệ thống sông da binh, là nguồn cung cấp nước cho tưới tiêu nông nghiệp và các khu công nghiệp và đại bình. Lào trong tương lai.

Baolu có nguồn nước phong phú, ít đầu tư nên có nhiều lợi thế trong việc khai thác nước ngầm.

Đất đai ở TP Bảo Lộc có 4 nhóm đất gồm 8 loại đất chính, trong đó nhóm đất feralit trên bazan chiếm tỷ lệ lớn, rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây có giá trị kinh tế dài ngày. Có nhiều loại đất, bao gồm: đất dốc, đất phù sa, đất nâu vàng bazan, đất nâu đỏ bazan, đất nâu vàng Daxi, v.v.

UBND TP.Bảo Lộc quản lý 1.256 ha đất lâm nghiệp và 2.000 ha đất trống. Trữ lượng gỗ ước tính khoảng 180.000 m3. Phần lớn diện tích rừng ở Bảo Lộc là rừng đặc dụng.

Theo điều tra dân số năm 1999, dân số của Paul là 135.313. Quá trình hình thành quần thể Bảo Lộc được chia thành 3 nhóm:

Trong các nhóm bản địa, nhóm mạ điện chiếm tỷ lệ cao nhất. Macun là tổ chức xã hội duy nhất có cơ cấu xã hội tương đối hoàn chỉnh, độc lập và khép kín về đất đai canh tác và nơi cư trú. Chế độ xã hội còn chặt chẽ, một bộ phận sản xuất vẫn tiến hành theo lẽ tự nhiên, đời sống còn nhiều khó khăn.

Hầu hết những người Jing đến Baolu trước năm 1975 sống ở các quận Luqian, Lubai, Luzhou, Luqing và Luya dọc theo đường cao tốc số 20 và cơ sở hạ tầng được đầu tư tương đối tốt. Sớm gia nhập cơ chế thị trường, năng động, giàu kinh nghiệm trong sản xuất và điều hành.

Người Kinh đến Baolu sau năm 1975, gồm nhiều tỉnh, thành trên cả nước lần lượt đến lập nghiệp và có những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh chính trị và trật tự xã hội. Tuy nhiên, do dòng người đổ về đông, thiếu kinh phí đầu tư, cơ sở hạ tầng chậm được xây dựng nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Đó là một cộng đồng đa dạng và không đồng nhất, hầu hết trong số họ không có nhiều kinh nghiệm sản xuất hàng hóa.

*

Bảo lộc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới biến đổi theo độ cao nên có khí hậu ôn hòa, thích hợp phát triển du lịch, nghỉ dưỡng. Khí hậu, thổ nhưỡng Bảo Lộc rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày.

Bảo Lộc nằm trên luồng giao thông giao lưu hàng hóa giữa các vùng kinh tế trong tỉnh và giữa Lâm Đồng với Đông Nam Bộ, ĐBSCL, đặc biệt là TP.HCM. Đây là những điều kiện thuận lợi để Baolu phát triển nhanh kinh tế hàng hóa, tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ.

Khác với Đà Lạt, Bảo Lộc phát triển mạnh về nông nghiệp và công nghiệp. Từ những năm 1930 đến 1940, các công ty Pháp đã thành lập nhiều trang trại và đồn điền để trồng trà, cà phê, v.v. Sau này, người ta phát triển trồng dâu và cây ăn quả.

Cây chè có lịch sử lâu đời (hơn 50 năm) ở Bảo Lộc, tuy trải qua những thăng trầm nhất định do nhiều yếu tố tác động nhưng đã khẳng định được ưu thế tuyệt đối của mình. Cho đến nay, diện tích và sản lượng chè Baolu không ngừng tăng lên. Năm 1999, Baolu sở hữu 8.743 ha chè và sản xuất 45.311 tấn chè búp tươi, trong đó các doanh nghiệp nhà nước chiếm gần 20% diện tích và 70% công suất chế biến. Tại Bảo Lộc đã hình thành vùng sản xuất chuyên môn hóa cao, gắn sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Cây chè gần như chiếm lĩnh hoàn toàn các tỉnh phía Nam. Tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu chè sang Liên bang Nga, Pháp, Châu Á Thái Bình Dương, Ấn Độ, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Ả Rập,…

Cà phê: Bảo lộc có 6.144 ha cà phê, sản lượng 8.478 tấn cà phê nhân, đứng thứ 4 sau di linh, lâm hà và bảo lâm. Đây là loài có giá trị xuất khẩu cao, rất thích hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Polo.

Cây dâu tằm: Baolu là nơi có điều kiện chuyển đổi ngành dâu tằm tơ từ nuôi tằm sang ươm tơ ươm tơ sang dệt lụa, là ngành kinh tế kỹ thuật tiên tiến, quy mô lớn, khép kín. Hiện tại, Liên minh Dâu tằm tơ Việt Nam là trung tâm đầu tư công nghệ do chính quyền trung ương và địa phương cùng đầu tư, đã hình thành hệ thống công nghiệp và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Trong những năm gần đây, do những biến động dữ dội trên thị trường quốc tế, diện tích trồng dâu Baolu đã giảm đáng kể, từ 5.820 tấn lá dâu năm 1995 xuống còn 3.483 tấn năm 1999.

Cây ăn trái cũng rất phù hợp và hiệu quả, bởi nó có đặc tính sản xuất trái vụ cho các tỉnh phía Nam. Nào là sầu riêng, chôm chôm, mít, bơ, v.v.

Chăn nuôi ở Bảo Lộc cũng phát triển mạnh: 2.496 con bò, 25.951 con heo (1999). Trong tương lai, ngành này sẽ tiếp tục phát triển.

Ngành công nghiệp chế biến chè đã hình thành và phát triển ở vùng Bảo Lộc từ những năm 1930 với sự phát hiện và phát triển cao nguyên Di Linh-Bảo Lộc của người Pháp. tỉnh Lâm Đồng và khu vực phía Nam. Nhà máy chè: Ngày 19/05, 01/05, 26/03, 28/03, Hà Giang, Minglong, Green Tea I, II,… đã trình diễn thế mạnh ngành chế biến chè của Bảo Lộc. Ngoài các nhà máy của nhà nước, hàng trăm nhà máy chế biến tư nhân cũng đang hoạt động rất tích cực.

Bên cạnh công nghệ chế biến trà, ngành dệt lụa tơ tằm cũng được đầu tư đáng kể, như nhà máy dệt lụa tự động Tháng Tám, nhà máy dệt lụa vikotex, nhà máy chế biến dâu tằm tơ Bảo Lộc. .

Công nghiệp chế biến lâm sản, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp giấy… cũng đang phát triển.

Năm 1994, 1995 ngành dịch vụ du lịch chiếm 32-33% GDP, tỷ lệ điều chỉnh tăng lên đạt 30% toàn thị xã. Năm 1995, tổng thu nhập của ngành khách sạn và ăn uống đạt 22,8 tỷ nhân dân tệ, ngành vận tải bưu chính là 13 tỷ nhân dân tệ và ngành thương mại và dịch vụ là 53 tỷ nhân dân tệ. Trên địa bàn thị trấn có 14 khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ.

Ngành bưu chính viễn thông đang phát triển mạnh mẽ, đạt mục tiêu cứ 100 dân có 7 máy tính, tổng đài điện tử ewsd có 3.000 số phục vụ các cuộc gọi trực tiếp trong và ngoài nước.

Ngành truyền thanh – truyền hình tiếp tục lớn mạnh và phát triển, thị xã có 1 đài truyền thanh – truyền hình và 9 đài truyền thanh nông thôn.

Hệ thống giáo dục mẫu giáo và giáo dục phổ thông được thiết lập tốt. Năm học 1999-2000, trên địa bàn thị xã có 38 trường học với tổng số 35.868 học sinh. Trường Trung cấp nghề kỹ thuật Paul Lộc (tiền thân là Trường Cao đẳng Nông lâm thành lập năm 1959) đã có tác động tích cực đến việc sản xuất chè, cà phê, dâu tằm tơ của thị trấn.

Mạng lưới y tế được phát triển và từng bước xã hội hóa ở các xã, phường cơ sở.

*

Cho đến hôm nay, chúng ta cũng không thể quên biết bao đồng chí, đồng bào đã anh dũng chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ trên mảnh đất xanh như ngọc này.

Trước Cách mạng tháng Tám, ở vùng đất này đã diễn ra cuộc đấu tranh không ngừng chống bọn áp bức, bóc lột, chống bọn áp bức, bóc lột của các lực lượng vũ trang, của công nhân, lao động của chủ đồn điền Tây, của đại bộ phận nhân dân. Trong sự vận động của dân tộc trong mộ a-ma Đông Lăng,…

Sau cuộc nổi dậy tháng 8 năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng được thành lập ở Cát Lâm. Chẳng bao lâu, quân Pháp tái chiếm thượng tỉnh Đồng Nai, quân khởi nghĩa đã chiến đấu anh dũng tại đèo b’lao nhưng phải rút về bên yên. Phong trào cách mạng Đồng Nai bắt đầu gặp khó khăn.

Tháng 4-1949, Xứ ủy Trung Kỳ và Xứ ủy Đồng Nai Thượng được thành lập.

Tháng 2-1950, ở b’lao, chính quyền được thành lập ở một số xã vùng đồng bào thiểu số, phát triển được nhiều đảng viên, thành lập các huyện ủy kháng chiến.

Ngày 22 tháng 2 năm 1951, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định hợp nhất hai tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai thành tỉnh Lâm Đồng theo tình hình liên vùng. Thành lập 6 đội vũ trang tuyên truyền, trong đó có 2 đội chủ yếu đánh hướng b’lao và djiring.

Từ năm 1958, hoạt động cách mạng cũng mạnh hơn trước, phong trào ngày càng lớn mạnh.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và viện trợ cho Triều Tiên, dưới sự lãnh đạo của cán bộ Đảng Lâm Thông, nhân dân Bảo Lộc và cán bộ, chiến sĩ đã đẩy phong trào cách mạng đến đỉnh cao chính trị và quân sự.

Tháng 4 năm 1964, nhân dân Baolu nổi dậy phản đối bắt cút lật đổ chế độ Trần Văn Tường.

Ngày 1 tháng 3 năm 1968, quân và dân Bảo Lộc đồng thời mở cuộc tấn công vào các mục tiêu quan trọng của địch trong thị trấn.

Ngày 27 tháng 3 năm 1975, Quân Giải phóng Nhân dân chiếm được chi nhánh Dahuai, đóng quân ở Madagui, sau đó chuyển đến Baolu.

8 giờ sáng ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân và dân thị xã Baolu đã giải phóng hoàn toàn thị trấn, mở ra một trang mới trong lịch sử – thời kỳ hòa bình xây dựng.

Đọc thêm:

1. Giới thiệuBảo Lộc là thị xã trực thuộc tỉnh Lâm Đồng, được thành lập năm 1994 trên cơ sở chia huyện Bảo Lộc cũ thành 2 đơn vị mới là thị xã Bảo Lộc và huyện Bảo Lâm. Bảo lộc nằm trên quốc lộ 20, cách thành phố Đà Lạt khoảng 110 km, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 190 km và cách thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) khoảng 100 km. Tháng 3 năm 2009, Bảo Lộc được công nhận là đô thị loại 3 trực thuộc tỉnh, ngày 08 tháng 4 năm 2010, chính phủ ra nghị quyết thành lập thành phố Bảo Lộc (thuộc tỉnh Lâm Đồng).

2. vị trí địa lý

Thác Dambri, thị xã Bảo Lộc

Diện tích của Bảo Lộc là 23.256 ha, chiếm 2,38% diện tích của tỉnh Lâm Đồng. Nó giáp quận Baolin về phía đông, nam và bắc. Nó giáp với khu vực tình yêu Dahua ở phía tây.

Dân số Bảo Lộc chủ yếu là người Kinh, với 153.000 người/33.045 hộ; 745 hộ dân tộc thiểu số, chiếm 2,33% tổng dân số.

Địa hình, địa chất Bảo Lộc có 3 dạng địa hình chính: núi cao, đồi dốc và thung lũng. + Vùng núi: Tập trung ở khu vực phía Tây Nam thành phố Bảo Lộc, bao gồm các vùng núi cao (900 – 1.100m so với mực nước biển) và sườn dốc (cấp iv đến cấp vi). Diện tích khoảng 2500 ha, chiếm 11% diện tích toàn thị trấn. + Đồi dốc: Gồm các khối bazan bị cắt xẻ mạnh, tạo thành các đồi và sườn dốc có đỉnh tương đối bằng nhau, độ cao chung từ 800 – 850m. Sườn đồi có độ dốc lớn (cấp 2 đến cấp 4), dễ bị xói mòn, chiếm 79,8% diện tích toàn thành phố, là diện tích trồng cây lâu năm như chè, cà phê, dâu tây. + Thung lũng: Tập trung ở Lô Châu và xã Dailao, chiếm 9,2% diện tích toàn thành phố. Địa hình tương đối bằng phẳng, nhiều nơi bị ngập úng sau trận mưa lớn nhưng nước rút nhanh. Tuyệt vời để trồng cà phê và trà, nhưng có thể trồng các loại quả mọng và cây phù du.

Khí hậu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng do có nhiệt độ cao trên 800m so với mực nước biển và chịu ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu Bảo Lộc có nhiều đặc điểm riêng, có những đặc điểm chính sau:

+ Nhiệt độ trung bình năm 21-22°C, nhiệt độ cao nhất năm 27,4°C, nhiệt độ thấp nhất năm 16,6°C. + Số giờ nắng trung bình 1680 giờ/năm, trung bình 4,6 giờ/ngày (các tháng mùa mưa: 2-3 giờ/ngày, các tháng mùa khô: 6-7 giờ/ngày). + Tháng 4 – 11 là mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng năm 2.513 mm, số ngày mưa trung bình 190 ngày, lượng mưa nhiều, tập trung vào tháng 7 – 9. + Độ ẩm trung bình năm khá lên, có thể lên tới 80-90%. + Gió: gió thịnh hành theo 2 hướng chính: o Gió Đông Bắc thịnh hành từ tháng 1 đến tháng 4 o Gió Tây Nam thịnh hành từ tháng 6 đến tháng 9. Một đặc điểm riêng của Bảo Lộc.

Thủy văn Hệ thống thủy văn bao gồm 3 hệ thống: + Hệ thống nước dar’nga: phân bố ở phía đông thành phố Baolu, là ranh giới giữa thành phố Baolu và quận Baolin, đồng thời là phụ lưu chính của thành phố Baolu. Các sông dar’nga ở Bảo Lộc bao gồm: suối dasre drong, suối dam’drong, suối dabrian. Các suối này cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp quanh năm. + Hệ thống suối Đại binh: Phân bố chủ yếu ở phía Nam Quốc lộ 20, bắt nguồn từ vùng núi cao phía Nam và phía Tây Bảo Lộc. Các phụ lưu gồm: suối dalab, suối tan ho, suối đại binh, giàu nước có thể dùng làm nguồn nước tưới ổn định cho thung lũng đại binh. + Hệ thống suối Đamb’ri: Là vùng thượng nguồn của suối Đamb’ri, phân bố chủ yếu trên địa bàn xã Đamb’ri, hầu hết các chi lưu của suối chỉ có nước vào mùa mưa. Dòng suối Đamb’ri có nhiều thác ghềnh, trong đó thác Đamb’ri là một cảnh quan có giá trị du lịch lớn. + Nguồn nước ngầm: Trữ lượng nước ngầm khu vực Baolu nhìn chung còn tốt, chất lượng nước tốt, có thể sử dụng cho sinh hoạt cũng như sản xuất công nghiệp và nông nghiệp.

3. Lịch sử

Năm 1958, Bảo Lộc được bầu làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng cũ, và một vùng rộng lớn của tỉnh Thượng Đồng Nai cũ, bao gồm các quận Đa Huai, Đa Đức, Gi Tian và Bảo Lâm mới thành lập , được tách ra và sau đó được thành lập lại. Quận Baolu cũ là nơi cư trú chính của những người thợ điện. Bảo Lộc được người Pháp khai phá từ rất sớm trong khi Đà Lạt đang trong quá trình xây dựng. Năm 1899, một phái đoàn Pháp do ông Ernest Outrey dẫn đầu đã bắt đầu một chuyến thám hiểm để khám phá những khả năng của khu vực Thượng Đồng Nai và vạch ra một con đường nối liền khu vực này với hòa bình. Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Toàn quyền Paul Doumer ký quyết định thành lập tỉnh Thượng Đồng Nai với Cát Lâm làm tỉnh lỵ. Năm 1905, bỏ tỉnh Thượng Đồng Nai và nhập vào tỉnh Bình Thuận. Năm 1920, Tỉnh Thượng Đồng Nai được tái lập gồm 3 quận: blao (bảo lộc), djiring (di linh) và dran-fyan (đơn dương). Ngày 19 tháng 5 năm 1958, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Thượng Đồng Nai thành tỉnh Lâm Đồng, sau đó tách quận Đề Lân ra khỏi tỉnh Lâm Đồng và nhập vào tỉnh Xuân Đức. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại hai huyện là Bảo Lộc và Thị Lĩnh. Ngày 30 tháng 11 năm 1958, Bảo Lộc được bầu làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng, việc xây dựng và mở rộng đô thị mới bắt đầu nở rộ từ đó.

Sau khi thống nhất đất nước, quận Baolu được chia thành quận Baolu, quận Dahuai, quận Dade và quận Jitian. Ngày 11 tháng 7 năm 1994, chính phủ quyết định chia quận Baolu thành hai đơn vị hành chính là thị trấn Baolu và quận Baolin.

Tháng 3 năm 2009, Bảo Lộc được công nhận là thị xã loại 3. Ngày 8 tháng 4 năm 2010, chính phủ ra nghị quyết thành lập thành phố Bảo Lộc (thuộc tỉnh Lâm Đồng).

p>

4. Nhân khẩu học

Theo điều tra dân số năm 1999, dân số của Paul là 135.313. Thành phần dân cư Bảo Lộc được chia thành ba nhóm: trong các nhóm bản địa, nhóm ngựa chiếm tỷ lệ cao nhất. Macun là tổ chức xã hội duy nhất có cơ cấu xã hội tương đối hoàn chỉnh, độc lập và khép kín về đất đai canh tác và nơi cư trú. Trong trường hợp một hệ thống xã hội chặt chẽ, một số vẫn sản xuất theo cách tự nhiên và cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn. Người Jing đến Baolu trước năm 1975 thường sống ở các quận Luqian, Lubai, Luzhou, Luqing và Luya dọc theo đường cao tốc số 20. Cơ sở hạ tầng được đầu tư tốt và họ vào thành phố sớm hơn. Cơ chế thị trường, năng động, có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. Người Kinh đến Baolu sau năm 1975, gồm nhiều tỉnh, thành trên cả nước lần lượt đến lập nghiệp và có những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh chính trị và trật tự xã hội. Tuy nhiên, do dòng người đổ về đông, thiếu kinh phí đầu tư, cơ sở hạ tầng chậm được xây dựng nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Đó là một cộng đồng đa dạng và không đồng nhất, hầu hết trong số họ không có nhiều kinh nghiệm sản xuất hàng hóa.

5. Nền kinh tế

Khác với Đà Lạt, Bảo Lộc phát triển mạnh về nông nghiệp và công nghiệp. Từ năm 1930 đến 1940, các công ty của Pháp đã thành lập nhiều trang trại và đồn điền để trồng trà, cà phê, v.v. Sau này, người ta phát triển trồng dâu và cây ăn quả. Cây chè có lịch sử khá lâu đời (hơn 50 năm) ở Bảo Lộc, tuy trải qua những thăng trầm nhất định do nhiều yếu tố tác động nhưng những ưu điểm tuyệt đối của nó đã được khẳng định. Cho đến nay, diện tích và sản lượng chè Baolu không ngừng tăng lên. Năm 1999, Baolu sở hữu 8.743 ha chè và sản xuất 45.311 tấn chè búp tươi, trong đó các doanh nghiệp nhà nước chiếm gần 20% diện tích và 70% công suất chế biến. Tại Bảo Lộc đã hình thành vùng sản xuất chuyên môn hóa cao, gắn sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Cây chè gần như chiếm lĩnh hoàn toàn các tỉnh phía Nam. Thị trường xuất khẩu chè tiếp tục sang Liên bang Nga, Pháp, Châu Á Thái Bình Dương, Ấn Độ, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Ả Rập,… Cà phê: Bảo Lộc sở hữu 6.144 ha cà phê với sản lượng 8.478 tấn cà phê nhân, đứng thứ nhất trong số Di Ling, Lin Xia và After Pauline, xếp thứ tư. Là loại cây có giá trị xuất khẩu lớn, rất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Polo. Cây dâu tằm: Bảo Lộc là nơi có điều kiện chuyển đổi ngành dâu tằm tơ từ trồng dâu nuôi tằm sang dệt lụa thành một ngành kinh tế kỹ thuật tiên tiến, quy mô lớn, khép kín. Hiện Hiệp hội Dâu tằm tơ Việt Nam được sự tài trợ của trung ương và địa phương là trung tâm thu hút vốn đầu tư công nghệ, đã hình thành hệ thống công nghiệp và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Những năm gần đây, do thị trường thế giới biến động mạnh nên diện tích trồng dâu tằm ở Bảo Lộc giảm rõ rệt, từ 5.820 tấn lá dâu năm 1995 xuống còn 3.483 tấn năm 1999. Cây ăn quả cũng rất phổ biến. Và mang lại hiệu quả cao nhờ đặc điểm sản xuất trái vụ ở các tỉnh phía Nam. Nào là sầu riêng, chôm chôm, mít, bơ, v.v.

Công nghiệp của thị xã Bảo Lộc chiếm hơn 40% tỷ trọng công nghiệp của tỉnh Lâm Đồng, bao gồm chế biến chè, chế biến cà phê, chế biến tơ tằm, dệt may… các nhà máy, xí nghiệp, nhà máy. Tập trung tại khu công nghiệp lộc sơn, phường ii và các xã đại lao. Bảo Lộc là thủ phủ của ngành dâu tằm tơ với các nhà máy chế biến tơ tằm, dệt lụa nổi tiếng như Nhà máy dệt lụa Á Châu… Bảo Lộc có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp khai khoáng và chế biến khoáng sản. Có trữ lượng bôxit và cao lanh lớn, trong đó bôxit trữ lượng khoảng 378 triệu tấn, loại c1 (al2o3=44,69%; sio2=6,7%) trữ lượng 209 triệu tấn.

Ngành bưu chính viễn thông đang phát triển mạnh mẽ, đạt mục tiêu cứ 100 dân có 7 máy tính; tổng đài điện tử ewsd có 3.000 số phục vụ liên lạc trực tiếp trong và ngoài nước. Ngành truyền thanh – truyền hình tiếp tục tăng trưởng và phát triển, thị trấn có 1 đài truyền thanh – truyền hình và 9 đài truyền thanh thị trấn, quảng trường.

6. Du lịch

Bảo Lộc có nhiều danh lam thắng cảnh như đèo Bảo Lộc, thác Đam Bri, hồ Nam Phương, suối Đá Bàn, núi Đại Bình, suối Tân Thành, v.v. Ngoài cảnh quan thiên nhiên còn có vườn cây, núi chè. Những triền dốc xanh mượt, có khi vươn mình dưới bóng cây, sau lưng là những dãy núi cao sừng sững, khiến Bảo Lộc càng thêm xinh đẹp, bao la và trù phú. Do khí hậu mát mẻ quanh năm nên là nơi lý tưởng để xây dựng khu nghỉ dưỡng. Bảo Lộc có nhiều thác, hồ, suối đẹp như thác Đamb’ri, thác bảy tầng, hồ Nam Phương, suối Đá Bàn… Khu du lịch Đamb’ri nổi tiếng với độ cao 57m hùng vĩ. thác và rừng nguyên sinh. , là nơi bạn có thể thư giãn, cắm trại…

7. Giáo dục, y tế

Hệ thống giáo dục mẫu giáo và giáo dục phổ thông được thiết lập tốt. Năm học 1999-2000, trên địa bàn thị xã có 38 trường học với tổng số 35.868 học sinh. Trường Trung cấp kỹ thuật – dạy nghề Bảo Lộc (tiền thân là Trường Cao đẳng Nông lâm thành lập năm 1959) đã có tác động tích cực đến nghề sản xuất chè, cà phê, dâu tằm tơ của thị xã. Mạng lưới y tế được phát triển đến tận cơ sở như xã, phường và từng bước xã hội hóa.

Cho đến hôm nay, chúng ta cũng không thể quên biết bao đồng chí, đồng bào đã anh dũng chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ trên mảnh đất xanh như ngọc này.

Related Posts